suphamsaigon.forumvi.com - Gia Đình Sư Phạm Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

042-ĐẦU NĂM TẢN MẠN VỀ CHỮ PHÚC Gs : Nguyễn Hữu Phước

Go down

042-ĐẦU NĂM TẢN MẠN VỀ CHỮ PHÚC Gs : Nguyễn Hữu Phước Empty 042-ĐẦU NĂM TẢN MẠN VỀ CHỮ PHÚC Gs : Nguyễn Hữu Phước

Bài gửi by suphamsaigon Wed Oct 31, 2018 8:51 pm

ĐẦU NĂM TẢN MẠN VỀ CHỮ PHÚC
Gs : Nguyễn Hữu Phước


Nhơn ngày tết Ất Mùi, thân chúc gia đình SPSG một chữ thôi: chữ PHÚC.

Phúc đồng nghĩa với chữ “Phước” như phúc đức, phúc lộc, phúc lợi, phúc tướng.
Nhưng chữ phúc còn có nhiều nghĩa khác nhau không liên quan gì đến chữ phước. Thí dụ: Phúc = nỗi niềm ôm ấp trong lòng hay tin cậy như tâm phúc; phúc = trở lại, như phúc đáp, phúc khảo (thi lại lần thứ nhì), phúc án = xét lại án đã xử; và nhiều chữ phúc với nghĩa khác nữa. Chúng ta chỉ nói về phúc / phước mà thôi.

Chữ PHƯỚC có liên hệ đến rất nhiều nội dung khác.
Trước hết trong 3 chữ thân thương quen thuộc, PHƯỚC LỘC THỌ, chữ PHƯỚC đứng đầu. Hầu hết con người đều mong ước 3 chữ nầy. Phước, theo sự hiểu biết thông thường, là chuyện tốt, điều lành mà trời ban cho những người làm nhiều việc thiện. Phước cũng là những chuyện may mắn mà ta hưởng được trong đời sống hằng ngày ngoài những mong ước bình thường.
Theo Công giáo, phước là sự “bình an cho người thiện tâm”. Chúng ta thường nghe câu “vinh danh Thiên chúa trên các từng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Theo Phật giáo, phước là kết quả của sự dày công trong việc “tu tụng, tu niệm, và tu hộ”, ba trong bốn cách tu để xóa tan vô số phiền não của con người. Tụng kinh, niệm kinh, và hộ niệm hay tụng niệm giúp các gia đình trong lễ ma chay, sẽ được “phước báo”. Phép tu thứ tư là “tu tập đắc hồ huệ” không liên quan trực tiếp đến chữ phước. Như vậy, muốn có phước, chúng ta phải tự tạo ra qua sự dày công tu luyện.

Lộc là điều tốt lành có liên quan đến đời sống vật chất hay việc thành đạt trên đường học vấn, được giữ chức vụ quan trọng, phục vụ xã hội, và được thăng tiến trong nghề, bành trướng thương vụ, số khách hàng gia tăng, lợi tức lên cao v.v.

Thọ là sống lâu. Lễ sinh nhật 60 là lễ hạ thọ; 70 mừng trung thọ, và 80 tuổi mừng đại lễ thượng thọ. Người xưa hay chúc nhau: “Thọ tỷ Nam san, phước như Đông hải” (sống lâu như núi Nam, phúc lớn như biển Đông).

Trung tâm Little Sài Gòn có khu thương xá “Phước Lộc Thọ” Nơi mặt tiền khu nầy (Hình A) có tượng của ba ông Phước, ông Lộc, và ông Thọ. Ông Phước tướng người phúc hậu, râu càm dầy và dài, tay bồng đứa bé; ông Lộc mặc áo quan văn, đội nón cánh chuồng theo trang phục của một vị quan thời xa xưa. Ông Thọ, tay cầm gậy, tay kia ôm bình, và cũng có râu dài.
Nhưng đôi khi có chút lầm lẫn vì có một số du khách Việt Năm gọi khu phố nầy là khu phố “Ba Ông Địa”. Quả là “oan ơi ông địa” cho khu phố, mặc dầu có một tượng ông địa ngồi phía trước ông Phước, và cười toét miệng, gần đó có một tượng ông địa nhõ hơn bằng đá. Bên trong cánh phải của sân khấu cũng có một tượng ông địa rất to với nhiều màu sắc (ông Thần Tài), và một tượng nhỏ hơn, bằng đá. Tên chính thức của khu thương xá là PHƯỚC LỘC THỌ, chữ Việt (Hình B) ngay bên trên tượng của 3 Ông. Trên tường trước bên mặt (Hình C) có 3 chữ Tàu (Hán: 福 祿 壽) có nghĩa PHƯỚC LỘC THỌ phía trên. Ngay bên dưới có tên bằng chữ Anh ASIAN GARDEN MALL, (hay Thương Xá Á Châu), nghĩa chữ không liên hệ gì đến phước, lộc, thọ.

Kế đến, với chữ phúc là phước, chúng ta có chữ PHÚC của con cháu chúa Nguyễn Hoàng với 9 đời chúa và 13 đời vua. Tất cả các chúa, các hoàng đế hậu duệ, và các con cháu khác thuộc dòng Nguyễn Hoàng đều có tên lót bằng chữ “Phúc”.
Tương truyền rằng trên đường về Nam, bà chúa vợ chúa Nguyễn Hoàng thụ thai và nằm mộng thấy thần hiện ra và bảo hãy đặt tên cho ấu chúa là Phúc sẽ được hưởng nhiều phước trời. Nguyễn Hoàng bàn tính với vợ là nếu tên con là Phúc, thì chỉ có đứa con nầy hưởng phước mà thôi. Hai ông bà quyết định lấy chữ Phúc làm tên lót với mơ ước là tất cả con cháu mình đều hưởng phước đời đời.
Đúng như ước nguyện của Nguyễn Hoàng, con cháu ông còn được hưởng tước phong “chúa” 9 đời. Tiếp theo đời chúa thứ 9, Nguyễn Phúc Ánh, cháu của chúa thứ 9, thống nhất đất nước sau một thời gian nội chiến hơn vài thập niên, giữa các họ Trịnh, Nguyễn, Lê, Mạc, và Nguyễn (Tây Sơn). Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế năm 1802 với niên hiệu Gia long. Dòng Nguyễn Phúc có thêm 12 đời vua nữa. Nguyễn Phúc Vỉnh Thụy, hiệu Bảo Đại, 1926- 1945, là vị vua cuối cùng của dòng họ Nguyễn Phúc. Vô số các con cháu khác của chúa Nguyễn Hoàng, ngoài các vị chú và vua, đều dùng tên Nguyễn Phúc . . .

Sau cùng, chúng ta có chữ đôi “HẠNH PHÚC”. Chữ nầy vô cùng uyển chuyển, và rất ư “triết lý”. Tôi ước mong và chúc tất cả quí vị luôn được Hạnh Phúc. Trong tâm tưởng, trong suy tư, trong cảm nhận, trong nội tâm của mỗi người đều có một sự hạnh phúc khác biệt nhau. Có thể một lời khen của chồng/vợ, sự gặp gỡ với thân nhơn, sự vui đùa với con cháu, hay nhìn ánh trăng rằm, nhìn cảnh tuyết rơi, hoặc vừa làm một việc thiện v.v. Tuyệt. Những lúc đó chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc tràng trề. Trong mỗi tâm tư, mỗi cảnh huống, hạnh phúc đều khác nhau ở mỗi người và trong chính ta. Chữ không đủ để diễn tả nên đành dùng tạm hai chữ triết lý cho vui vậy vì trạng thái “Hạnh Phúc” quá đa dạng.
Tôi xin mượn và bắt chước ý của 2 câu chữ Hán Nôm của Nguyễn Công Trứ đã viết từ xưa:
“*Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc,
*Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn”*

Tôi viết rằng:
“Biết hạnh phúc là hạnh phúc,
Đợi hanh phúc biết bao giờ có hạnh phúc”.

*Biết đủ là đủ, đợi cho đủ, biết bao giờ đủ,
*Biết (an) nhàn là an nhàn, đợi an nhàn biết bao giờ an nhàn.

Một lần nữa xin chúc quí vị luôn có chữ PHÚC, và luôn cảm nhận sự Hạnh Phúc trong Tâm Bình An.
Jan 18, 2015.
suphamsaigon
suphamsaigon
Admin

Tổng số bài gửi : 522
Join date : 17/12/2013
Age : 70
Đến từ : Saigon-Viet Nam

https://suphamsaigon.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

042-ĐẦU NĂM TẢN MẠN VỀ CHỮ PHÚC Gs : Nguyễn Hữu Phước Empty NĂM MÙI VIẾT CHUYỆN DÊ (Tiếp Theo) Nguyễn Hữu Phước & Dương Tử

Bài gửi by suphamsaigon Wed Oct 31, 2018 8:52 pm

NĂM MÙI VIẾT CHUYỆN DÊ (Tiếp Theo)
Nguyễn Hữu Phước & Dương Tử



-Nhất định không ăn thịt Dê
Sau ngày 30/4/75, Thầy Cô đói meo ra, lương không đủ sống, thực phẩm thiếu thốn. Một Phụ huynh tặng cho Trường một cặp Dê Con, một đực một cái, thả ăn trong sân trường, khi lớn sẽ làm thịt đãi Thầy Cô. Thế nhưng Dê “quậy quá”: Bao nhiêu hoa kiểng, trường bắt học sinh trồng trước cửa lớp cho tươi mát, bị chúng “tém” sạch. Học sinh khiếu nại lên, khiếu nại xuống. Có khi Thầy Cô đang dạy, chúng đến đứng trước cửa lớp dỏ mốm vào kêu Be Be, cả lớp cười rần lên, có nam sinh còn la lên: “Nó kêu Thầy kìa!” Lớn thêm một chút, Dê còn “làm trò” công khai trước mặt các Nữ sinh. Do đó, Ban Giám Hiệu quyết định ngày Hiến chương Nhà giáo sắp đến thì làm thịt đãi Thầy Cô.
Thầy Ngọc khều vai Hiệu Trưởng:
-“Bà làm sao không biết, chứ tôi nhất định không ăn thịt dê. Cho tiền tôi cũng không ăn. -Sao? Anh không ăn à? Anh cử thịt Dê à? Bả hỏi dồn dập với vẻ ngạc nhiên lắm. Thầy Ngọc bình tỉnh đáp: -Bà bắt tôi ăn thịt đồng loại tôi, làm sao tôi ăn đươc! Lại một lời rủa “Đồ quỷ Anh nầy”nữa”.
Vịnh Con Dê
Be Be cho lắm cũng là Dê
Xem lại xem đi, thật giống hề.
Thấy gái, lân xăn, gà mắc đẻ
Gặp trai, lích xích, giống Bê-Đê.
Rau đắng, rau gai, đều lặt cả
Cỏ già, cỏ úa, cũng không chê,
Mười một hai mươi, ngày Giáo chức(*)
Mần răng, mần rứa, cũng “cho về” (**) (DT.)
(*) 20 tháng 11 là Ngày Hiến Chương Nhà Giáo.
(**) Cho về Dê với Ông Bà, làm thịt đãi Thầy Cô.
-Thầy kể còn thiếu
Gần đến ngày đi Mỹ, Thầy Dương và các Bạn trong Trường cũng có phần nào quyến luyến vì dù sao Thầy cũng đã dạy tại Trường nầy trong 10 năm trời. Hôm đó trong Phòng Giáo sư, bất ngờ Cô Lan dạy Văn hỏi Thầy:
- Thầy đi Mỹ mà Thầy có nhớ Trường không?
Cô nầy còn độc thân, bị gia đình gả ép hôn nhân, đã nhờ Thầy xin Hiệu Trưởng cho “ tị nạn”. HT bèn cấp cho 1 căn phòng ở lầu 3, chung với Cô Thu, cũng còn độc thân và cũng muốn xin vào ở trong Trường vì nhà xa, đông anh chị em, chật chội, ồn ào. Riêng Cô Lan thì đúng như câu ca dao:
“Trách lòng Cha mẹ ham danh
Chỗ tôi thương không gả, chỗ tôi không đành ép tôi”
Thầy Dương tình thật đáp:
- Có chứ Cô Lan
- Thầy nhớ gì, đâu Thầy kể ra coi.” Không lẽ nói nhớ mấy Cô, nên Thầy Dương nói trớ:
- Ờ…Ờ nhớ cây nhớ cối nè.
- Đâu Thầy nhớ cây gì, kể ra nghe đi.
- Thì cây Phượng vĩ trước sân Trường mỗi độ Hè thì nở hoa đỏ rực báo hiệu mùa thi và cũng là mùa chia tay!
- Cây gì nữa?
- Cây dầu cao ngất, thả bông quay tít từ trên cao xuống đất như chong chóng.
- Cây gì nữa? (Cô truy Thầy Dương như truy học trò).
- Khóm trúc mọc ở bờ tường giáp với Bệnh Viện Hồng Bàng nè:
“Trúc xinh, trúc mọc bờ tường
Em xinh, Em đứng trong Trường thêm xinh.”
- Thầy kể còn thiếu.
- ???
- Còn mấy cây sua đủa sau Trường, phía bên Hảng Lave BGI!
Thầy Dương chới với, thì ra Cô ấy nói mình DÊ vì câu ca dao:
“Dê xồm ăn trái khổ qua
Ăn nhầm sua đủa chết cha Dê xồm!”
Nhưng Thầy nhanh chóng lấy lại bình tỉnh vì đã Dê thì phải bình tỉnh để đối phó trong mọi tình huống.
-Ờ…Ờ, còn nhớ mấy cây sua đủa đó nữa chứ, rất đặc biệt, thân cao, lá nhỏ. Trái dài thả thòng xuống, gió đong đưa.
Nói rồi làm bài thơ “Vịnh Cây Sua Đủa” đưa cho Cô LAN bảo họa (dạy Văn mà! Xướng họa giữ Thầy Cô với nhau cũng bình thường). Cô không họa nỗi các vần “thon, bon, non, son, hòn”, cũng như các vần “xô, cô, vô, ô, rô” trong một Bài Đường Luật khác nên Thầy Dương nhờ một phụ huynh học sinh họa thế dùm:
Vịnh Cây Sua Đủa
Dáng tròn lăng lẳng, nhánh thon thon
Lá nhỏ cành thưa, trái thẳng bon.
Gầy nấm nghe phen tìm góc cả
Đở lòng nhiều lúc kiếm bông non.(*)
Thương người đày đọa nơi sương tuyết
Xót vật tế thần trước bệ son!(**)
Tiếng ngọt lời ngon đâu dễ thiếu
Ghét nhau bóp méo quả bồ hòn (DT.)
Ghi chú (*) thân cây dùng ủ nắm rơm còn bông non nấu canh chua rất ngon.
(**) Tích Ông Tô Vũ chăn dê; và con Dê tế thần (bouc émissaire)
Họa Vận
Sần sùi da cóc nhún cà thon
Chưn yếu tay mềm đứng thẳng bon.
Mấy lúc phơi gan, thân cằn cỗi
Bao phen trải mật, cánh còn non.
Một đời cống hiến nào đâu kể
Muôn kiếp xanh chồi vẫn sắc son.
Nghe thoảng hơi hương đà chép miệng
Ngọt ngon chi sá bấy nhiêu hòn.
Nhật Thăng (1983)

Xổ số đề: 35 Con DÊ
Ở nước ta, khoảng đầu thập niên 1950 có những sòng bạc lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới. Một trong các sòng bài lớn tổ chức một loại cờ bạc mang tên Xổ Số Đề hay “Đánh Đề”. Đề có 40 số và con Dê được gán cho con số 35. Từ đó con Dê có tên mới là Con 35, Con Ba Lăm, hay Con Băm Lăm. Những chàng hay theo “Dê” các cô một cách không kheó léo hay “quá trắng trợn” bị các cô cho biệt danh “các anh Băm Lăm”; hay phê bình “thằng cha đó “Ba Mươi Lăm” quá.
Bài Vịnh Con Dê của Dương Tử:
Bác mẹ sinh ra chẳng tiếng tăm
Vì chưng miệng thế hoá ba lăm.
Hái rau lặt cỏ danh lừng lẩy
Vắt sữa, vun phân, tiếng chẳng nhầm!
Bổ thận, cường dương, công hãn mã
Lưu tôn, truyền tử, đức trăm năm.
Không Dê, sao có Dê con được
Dê bố, Dê Con lắm kẻ tầm!

Dùng Con Chó Mô Tả Con Dê qua Nhóm Chữ Tây Bồi “Mêm Xối Xiên”
Nhóm chữ nầy chỉ nghe nhiều trong văn nói hơn thấy nhiều trong văn viết. Đó là nhóm chữ mêm xối xiên (có nghĩa cùng loại hay giống như con chó).

Theo Ông Vương Hồng Sển (4) chuyện truyền khẩu rằng ngày xưa có một người dốt tiếng Pháp đem một con Dê mập béo làm quà Tết biếu quan Tây để đút lò đêm giao thừa. Quan hỏi: ông cho tôi con gì đó? Bị hỏi bất ngờ, ông đó không nhớ ra tên tiếng Pháp của con Dê. Ông mới diễn tả bằng số từ ngữ hạn hẹp, sai văn phạm, của ông: “Lũy mêm xối xiên, dà na cót, dà na bát; lủy bạt tia, mỏa tróc tróc lủy nông ba rờ tua, lui bạt be he, be he ”” (lui même chose chien, il y a corne, il y a barbe, lui partir, moi “tróc tróc”, lui non pas retour, lui parle be he, be he. Tạm dịch: Nó giống con chó, có sừng, có râu, nó đi, tôi tróc tróc, nó không trở lại, nó kêu be he, be he. Quan Tây hiểu rõ là con Dê, nhăn răng cười. Chuyện nầy thực hư ra sao không biết được.
Theo ông Lãng Nhân (4), nhóm chữ mêm xối xiên nầy chỉ món ăn độc đáo của VN là “món giả cầy” vì nó là món thịt heo nấu giống thịt cầy nó “mêm xối xiên” mà, ăn tạm khi không tìm ra thịt chó vậy. Cả hai thuyết trên về nguồn gốc của nhóm chữ mêm xối xèn nghe đều hay cả. Nhóm chữ nầy, tuy rằng bắt đầu do một người ít học dùng, sau đó lại là nhóm chữ được phổ thông một thời. Người ta dùng trong văn nói với giọng bông đùa, hơn là trong văn viết trong thập niên 1950 và 1960.

DÊ TÀU

Nói đến dê Tàu phải nhắc đến những hành động tàn nhẫn của các vua chúa ở nước Tàu ngày xưa. Những tên bạo chúa nầy muốn giết ai thì cứ giết, muốn cách chức hay hành hạ ai thì cứ ra lệnh, dù họ chỉ phạm một lỗi lầm nhỏ, hay vì một lời ton hót của nịnh thần.
Chuyện kể rằng thời nhà Hán, Ông Tô Vũ bị vua Hán Cao Tổ nghe lời dèm xiễm đày ông lên Bắc cực “chăn Dê” với quân lệnh là “chừng nào “Dê đẻ” mới cho về! Nhưng than ơi, đàn Dê được giao phó cho ông gồm toàn Dê đực. Đấy, bọn vua chúa “Tàu khựa” ác và thâm như thế! Hiện giờ thì ai mang tội âm mưu “chống nhà nước” hay “chống đảng” là được đi “học tập cải tạo” mút mùa như Tô Võ chăn Dê đực.
Liên hệ tới vua chúa Tàu, có chữ “dương xa”, xe Dê. Vua chúa bên Tàu ngày xưa dùng xe do Dê kéo khi trời vừa tắt nắng, để đi vòng qua các phòng của cung nữ. Các cung nữ rắc muối vào lá dâu, một món ăn Dê ưa thích, để mong Dê kéo “dương xa” vào phòng mình. Nếu nàng nào được đấng quân vương “ngự” qua đêm, và kết quả là một con trai nhập thế, thì cung nữ ấy có hy vọng làm “Cung Phi” và nếu hoàng nam sau nầy được phong làm Thái Tử, thì cuộc đời của Hoàng Phi, mẹ Thái Tử, thật lên hương. Khi Thái tử kế nghiệp cha làm vua, thì người cung nữ vô danh ngày xưa sẽ trở thành Hoàng Thái Hậu, quyền hành trên cả vua con, và dâu Hoàng Hậu của mình.
Điển hình của trường hợp vua “ngự cung nữ” sanh được hoàng nam (3), là bà Từ Hi Thái Hậu của nhà Thanh bên Trung Hoa. Bà tên Yehonala, người Mãn châu, khi mới được tuyển vào cung để làm một trong vô số cung nữ (hầu thiếp) của vua Hàm Phong, đã quyết chí học hỏi để làm vừa lòng Hoàng Thái Hậu đương thời, mẹ của Hàm Phong. Tuy lúc đó mới 16 tuổi nàng Yehonala đã cố công học chữ Hán, học cách trang điểm và ăn nói v.v. để quyết chí trổ tài cho vua mê, khi nàng được vua “ngự”, nàng đã thành công và may mắn đã sanh được một con trai.
Bà Hoàng quí phi Từ An, vợ chánh của Hàm Phong, lại không có con trai. Do đó con bà Yehonala được làm Thái tử. Vua Hàm Phong phong cho Hoàng quí phi là Đông Cung Hoàng Hậu và ban tên hiệu cho Yehonala là Từ Hi, làm Tây Cung Hoàng Hậu. Năm 1862 vua Hàm Phong băng hà. Thái tử lên ngôi lúc 6 tuổi dưới niên hiệu Đồng Trị, 1862-1877. Trước khi vua Hàm Phong chết Từ Hi đã ton hót xin lập di chiếu cho cả hai bà Hoàng hậu (để giữ thể diện cho bà Đông Cung, và cũng dựa hơi bà nầy) được quyền nhiếp chính giúp vua mới, con của Từ Hi, với sự trợ tá của Hoàng thân Cung Thân Vương. Mỗi khi “lâm trào”, có nghĩa là vua và các triều thần bàn thảo việc nước, hai bà ngồi sau bức mành, ngay sau lưng vua và quyết định mọi việc triều chánh thay vua con (tiếng Trung Hoa đọc & viết giọng Hán Việt là “thùy liêm thính chính” có nghĩa ngồi sau rèm nghe việc nước). Bà Từ An ít học, hiền hậu nên trên thực tế bà Từ Hi đã nắm mọi quyền hành.
Người Mãn Châu xăm chiếm nước Tàu và cai trị Tàu từ năm 1644 đến năm 1911 dưới danh hiệu nhà Thanh. Các vua Mãn Châu có nhiều vị tài giỏi. Họ lại rất khôn ngoan dùng quan lại người TH, dùng chữ Hán, (chữ TH), và tiếng Hán trong việc cai trị nước Tàu. Nhờ đó mà vương triều nhà Thanh rất lâu dài, 267 năm. Trong 267 năm đó, bà Từ Hi nắm quyền bính trong tay 49 năm cuối của nhà Thanh. Khi các nước Tây Phương liên kết nhau chiếm nước Tàu, chấm dứt sự cai trị của người Mãn, họ đặt ra nhiều khu cai trị đặc biệt gọi là “tô giới”. Dù đã dành được độc lập rồi, nhưng Tàu còn nhớ mối thù nầy bà con ơi. Hiện nay họ đang cố vương lên để cho các nước Âu Mỹ “kính sợ”, tỏ ra “ta đây” là một trong hai cường quốc kinh tế mạnh nhất thế giới. Họ tìm cách chọc quê các cường quốc Âu, Mỹ. Cái cú đem giàn khoan vào lãnh hải của các đảo Việt Nam là một cú dò tìm phản ứng. Phải phản ứng mạnh lên bà con ơi. Tàu chưa quánh VN đâu, chỉ thụi vào be sườn vài cú chứng tỏ ta là cường quốc. Ngày nay các cường quốc kinh tế sẽ quánh nhau bằng các chiêu kinh tế. Súng đạn là chỉ dùng để đập ruồi con, để biểu dương sức mạnh kỷ thuật. Phải tiêu xài số đạn dự trữ trong kho, (để lâu thuốc đạn sẽ thúi; đùa dai), hầu giúp giúp công nhân kỷ nghệ đạn dược có việc làm và do đó giữ cho một phần của kinh tế kỷ nghệ khỏi suy sụp. Chuyện các cường quốc dọa nhau với nhiều tuyệt chiêu, “thấy vậy mà không phải vậy”. Nhờ đó các thầy bàn trên TV shows và trên các báo có chuyện “bàn” dài dài. Ai đoán trúng thời thế nhiều lần, có hy vọng được job ở đài TV hay tờ báo nổi danh hơn (lương cao hơn). “Nghề của chàng mà”

DÊ MỸ

Quan Niệm Xã hội về Ba Chữ “Dê Tế Thần” ở Hoa Kỳ

Dê đã xuất hiện từ ngàn xưa ở nhiều nơi trên thế giới. Dùng Dê làm vật tế lễ cũng đã có từ lâu lắm rồi. Ở Việt Nam cũng có việc dùng Dê trong cúng tế. Nhắc lại là qua web của Ma Cơ Khổng Tước Linh Thần Toán Tử Bach Van Phi, trong bài Lục Súc Tranh Công, tác giả vô danh đã dùng chính miệng Dê để nói về vai trò Dê trong trong việc tế lễ ở xã hội Việt Nam xưa. Chúng tôi ghi trở lại một đoạn bên trên:
Dê vốn thật thuộc về việc lễ,
Ðể hòng khi về hạng tư văn ;
Ðể dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ yên, kỳ phước.
Hễ có việc, lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Ngựa tuy rằng hình tượng lớn cao,
Tam sanh lễ*, ai dùng đến ngựa ?
Dầu đến việc làm đình, làm chợ,
Cũng lấy dê trảm thảo, bồi cơ ;
Nhẫn đến ngày mạng tướng xuất sư,
Cũng lấy dê khấn cầu tổ đạo.
Lễ cốc sóc thánh nhân còn bảo :
Tử Cống sao dê sống bỏ đi ?
(*Tam sanh: Dê, lợn, và trâu bò.)

Trong văn chương Hoa Kỳ nhóm chữ Dê Tế Thần (scapegoat) (6) là một ý niệm của phát xuất từ Kinh thánh Kitô giáo thời Cựu Ước, trước khi Chúa Kitô giáng sinh. Kinh Thánh Cựu Ước ghi rất nhiều chi tiết về ý nghĩa của Dê Tế Thần theo Kitô Giáo, qua sự mặc khải của Thiên Chúa.
Xin tóm lược vài đoạn trong Kinh thánh Cựu Ước, sách Leviticus như sau (7):
Sách Leviticus Chương 16, đoạn 22-29 ghi rằng trong Ngày Xá Tội (Day of Atonement) một Linh Mục xưng tất cả những tội lỗi của dân Do Thái trên đầu của một con Dê, sau đó tế lễ con Dê, hoặc xua đuổi con Dê vào vùng hoang dã. Ngày Xá Tội còn có vài ý nghĩa khác như Ngày Chuộc Tội, Sự Đền Bù, Sự Hài Hòa giữa con người sau khi được xá tội.
Con Dê sau khi bị tế lễ, hoặc sau khi được lùa vào miền hoang vu, sẽ mang theo với nó tất cả những bất bình đẳng, những gian tà, độc ác, và tội lỗi của của con người. Do đó con người được thanh sạch và được rửa tội.
Nói cách khác, con Dê trong trường hợp nầy, chịu tội thế cho con người. Nó mang tên “Dê Tế Thần”. Rất nhiều bài, và sách ở Hoa kỳ viết rất chi tiết về Dê Tế Thần theo Thánh Kinh Kitô Giáo.

Theo dòng lịch sử, ý niệm Dê Tế Thần biến đổi trong xã hội, và theo tâm lý phức tạp của con người. Ngày nay, ý niệm Dê Tế Thần được dùng trong ý nghĩa sau:
Dê Tế Thần hay Scapegoat chỉ một ngưòi nào đó nhận hay bị bắt buộc nhận tội thế cho một người, một nhóm người hay một cơ quan nào đó, mà tội ấy không phải do người đó làm ra.
Hoa Kỳ có rất nhiều chữ để chỉ quan niệm trên: Nạn nhân – victim; trở thành nạn nhân – victimization; kẻ bị gán tội do người khác làm – the fall guy; bắn người đưa thư vì giận người viết thư do đó người đưa thư trở thành nạn nhân hay Dê Tế Thần – shooting the messenger; dùng lời nói hay cử chỉ để lấn ép hay làm nhục người khác vì họ có sự khác biệt – bullying, trường hợp nầy xã ra ở một số trường học mà nạn nhân thường là học sinh thuộc sắc tộc thiểu số; và còn hơn mười chữ nữa để chỉ ý niệm scapegoat nầy.
Trên phương diện tâm lý và y học, ý niệm Dê Tế Thần – scapegoat hay scapegoating là một tiến trình tâm lý mà một người, hay một nhóm người dùng tâm lý để làm nhục, lấn áp, quy trách nhiệm, hay chế nhạo người khác một cách vô căn cớ.
Hành vi, lời nói thuộc loại Dê Tế Thần nầy có thể xảy ra giữa những người trong gia đình, giữa cá nhân với cá nhân, thí dụ câu nói “nó làm bậy đó, không phải tôi” (mặc dầu nó không làm bậy), giữa cá nhân với một nhóm nguời và ngược lại, giữa cá nhân với một đoàn thể hay ngược lại, giữa hai nhóm trong một hảng xưỡng, thí dụ nhóm điều hành, management, quy sự thiệt hại trong một thương vụ cho nhóm kỷ thuật. Nhóm sau là nhóm Dê Tế Thần.
Hoa Kỳ với tên Hợp Chúng Quốc (United States) vì do nhiều Tiểu Bang hợp lại dưới một Hiến Pháp. Nhưng cũng có thể gọi Hoa Kỳ là một Hợp Chủng Quốc vì có rất nhiều sắc tộc. Do đó vấn đề scapegoating được nhiều cơ quan công và tư chú ý vì là một vấn đề tế nhị, và hết sức quan trọng. Nó liên quan đến sự sống hoà hợp giữa nhóm chủng tộc đa số và nhiều nhóm chủng tộc thiểu số trong học đường, nơi làm việc công hay tư sở. Tránh được sự scapegoating là giải quyết được một khía cạnh lớn của nạn kỳ thị trong nhiều lãnh vực như nam/ nữ, chủng tộc, tuổi tác, nghề nghiệp v.v. Nhưng cho tới ngày nay, tuy việc scapegoating có giảm bớt, nó vẫn còn xãy ra. Do đó ở các thành phố, các counties, nơi nào có nhiều nhóm thiểu số, chánh quyền địa phương thường lập ra một Hội Đồng thường mang tên Community Relations Commission mà thành phần của các commissioner gồm nhiều đại diện các sắc tộc để hòa giải những chuyện hiểu lầm về văn hóa hay những trường hợp than phiền về kỳ thị hoặc scapegoating.

Việc Nuôi Dê Sữa ở HK
Theo tài liệu của Agriculture Plant Health Inspection Services (APHIS), thuộc Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ thì ngoài việc nuôi Dê để bán thịt, những nhà nuôi Dê còn có mục tiêu khác là dùng sữa Dê để:
1. Chế biến thành cheese (phó mách = fromage, tiếng Pháp);
2. Dùng sữa Dê như sữa bò;
3. Chế biến sữa lên men thành các thứ ăn khác như ice cream và bơ (butter);
4. Dùng sữa Dê trong việc nuôi Dê con và các loài súc vật khác. Ngoài số người có ý thích dùng sữa Dê một cách bình thường, còn có một số người bị dị ứng (allergy) hay khó chịu về đường tiêu hóa khi dùng sữa bò, nên họ dùng sữa Dê thay thế. Lý do là thành phần dinh dưỡng cũng như một số hóa chất trong sữa Dê có chút khác biệt với sữa bò, do đó tránh được dị ứng mà vẫn có đủ dinh dưỡng cần thiết như dùng sữa bò.
Tuy nhu cầu về sữa không cao như nhu cầu về thịt, kỷ nghệ sữa Dê cũng bành trướng đều đặng: Năm 2007 HK có 209, 800 Dê sữa; năm 2011 HK có khoảng 360,000 Dê sữa.
Những miền và các tiểu bang nuôi nhiều Dê sữa:
Miền Đông Bắc: Indiana, Iowa, Michigan, Missouri, New York, Ohio, Pennsylvania, Wisconsin. Miền Tây Nam: Alabama, Florida, Georgia, Kentucky, North Carolina, Oklahoma, Tennessee, Texas, Virginia. Miền Tây: California, Colorado, Oklahoma, Oregon, Texas, Washington.
Về con số, miền Đông Bắc cao nhất (chiếm 18.5 % tổng số Dê sữa. Miền Tây HK chỉ có 4.6 %. Khoảng 50% nhà nuôi Dê ở HK gia nhập vào những Hội Nuôi Dê. Hội viên trao đổi kinh nghiệm, tổ chức tu nghiệp v.v. để cải tiến nghề nghiệp.
Để tiện việc thống kê, trại chăn Dê được phân ra 4 hạng. Trại loại “rất nhỏ” nuôi 1 đến 9 con Dê; “Trại loại nhỏ”: 10 đến 19 con; “Trại trung bình”: 20 đến 99 con; “Trại lớn”: có100 con hay nhiều hơn.
Mỗi Dê sữa, lúc sung sức, có thể sản xuất 6 đến 8 pounds sữa mỗi ngày, con số thay đổi tùy giống Dê. Lý do chánh của sự gia tăng Dê sữa vì nó đem thêm lợi tức cho gia chủ. Nếu có khả năng bành trướng, đàn Dê càng nhiều, trên 100 Dê sữa, lợi tức càng cao hơn.
Dân nuôi dê dùng ba cách sau đây để vắt sữa Dê:
- Dùng tay (có đeo bao tay) và vắt sữa vào từng chậu.
- Dùng máy điện vắt sửa vào từng chậu.
- Dùng máy chuyên vắt sữa và cho sữa chạy thẳng vào một hệ thống ống dẫn đến thùng chứa lớn.
Cũng theo thống kê của APHIS, 90.6% các trại Dê loại nhỏ và 85% các trại loại trung dùng tay để vắt sữa Dê. Các nông trại lớn dùng máy.
Hầu hết các loại sữa Dê trên thương trường phải trải qua tiêu chuẩn kiểm nghiệm và số lớn đều là sữa hạng A (Grade A Milk).
Tóm lại có một số nguời có trại Dê rất nhỏ, nuôi Dê như một loại giải trí. Một số khác nuôi với tính cách gia đình để có thêm phần thực phẩm. Một số nông dân, với những trại Dê lớn, nuôi Dê với tính cách kỷ nghệ sữa, phó mách, và thịt Dê bán cho dân chúng tiêu thụ.
Đặc biệt nhất là có một số nông trại chuyên nuôi Dê để dùng vào việc …phòng ngừa cháy rừng, và điều hành các vùng cỏ dại, hay bụi rậm.

Kẻ Giết Dê Người Cứu Dê: Chuyện chỉ có ở Hoa Kỳ.
Gần bờ biển Nam Califonia trên các đảo mang tên Channel Islands, San Clamente Island và Santa Catalina Island có nhiều loại Dê sinh sống (6). Người ta tin rằng các giống Dê nầy do những người truyền giáo Tay Ban Nha mang đến đây vào khoảng 1875 từ xứ Tây Ban Nha, Âu Châu . Các loại Dê hoang nầy sinh sống tự do một thời gian khá lâu. Đến khi thấy các đàn Dê hoang ở đảo San Clemente bắt đầu xâm lấn đến vùng bảo vệ một số thực vật sắp tuyệt chủng trên các đảo nầy, Hải Quân Hoa Kỳ, cơ quan có thêm nhiệm vụ bảo vệ thực vật hiếm, tìm cách diệt Dê. Những phương pháp ban đầu như gài bẫy và cho phép săn bắn Dê, thất bại. Hải Quân dùng cách bắn Dê qui mô để triệt Dê.
Hội Fund For Animal kiện ở Tòa xin đình chỉ việc “diệt Dê” với lý do là Dê không làm hại các loại cây hiếm có. Trong lúc đó các loại cây nầy đã đươc Luật Bảo Vệ Cây Hiếm” che chở. Giải pháp được đưa ra là cho phép gia đình Clapp và Hội Fund For Animal nhận Dê về nuôi ở vùng đất liền theo con số yêu cầu. Hải Quân được phép tiêu diệt những đàn Dê hoang còn lại trên các đảo. Đến năm 1991, đoàn Dê cuối cùng trên đảo San Clemente bị diệt. Sau nầy các nhà nghiên cứu về Dê mới khám phá ra là trong những giống Dê ở đảo San Clemente có một loại thuộc vào một chủng loại Dê hiếm có. Nhưng chuyện đã rồi.

Dùng Dê Vào Việc Phòng Hỏa, và Quản trị Cỏ Cây Hoang Dại

Theo tài liệu Goat Vegetation Management Project, thành phố Laguna Beach, một cơ quan công, vùng đồi ven biển phía đông nam của Newport Beach, từ thập niên 1990, đã dùng một số Dê vào việc quản trị cây cối trong các cánh rừng của thành phố, không để cây hoang mọc quá nhiều. Sau cuộc hỏa hoạn thiêu rụi hơn 14 ngàn mẫu rừng và thiêu trọn hay làm hư hại 441 ngôi nhà, Laguna Beach đã xin một ngân khoản, mỗi năm $396,00.00 trong 2 năm, từ cơ quan Hazard Mitigation Grant Program, thuộc cơ quan liên bang FEMA, để dùng Dê phòng hỏa hoạn. Địa thế rừng rậm với nhiều loại cây dễ cháy trên các đồi núi, xen vào các khu nhà của cư dân thuộc địa phận Thành Phố khiến cho vùng nầy là một nơi rất đáng ngại về hỏa hoạn. Một trong những giải pháp là làm giảm số cây dễ cháy bằng cách muớn những đàn Dê, vì chỉ có Dê mới có thể leo trèo trên các sườn đồi dốc, các hẽm hẹp trên cao hay các hóc núi mà con người và máy ủi cây không thể vào tới. Họ cũng dùng một số nhân công và máy ủi đất ở những nơi có thể đến được. Hàng năm, nhờ số tiền do cơ quan FEMA cấp trong 2 năm đầu, và sau đó là do ngân sách của Thành Phố, Laguna Beach sử dụng cả người, Dê, và một số hóa chất chống cỏ dại. Đàn Dê từ nhóm nhỏ khoảng 75 con, đế đàn lớn độ 700 con, làm việc quanh năm từ vùng nầy sang vùng khác trong lãnh thổ thành phố. Nhờ sự phối hợp đó, cư dân Laguna Beach được an lành trong hơn hai mươi năm nay.
Bộ Giao Thông California (Cal-Trans) cũng dùng Dê
Phân đoạn dưới đây dùng tài liệu trong bài liên hệ đến Bộ Giao Thông (Cal-Trans) Califonia do tác giả Maria Raptis viết từ năm 2007 với tựa bài Mướn Dê Để Dọn Cỏ Hoang – Cal Trans có Đùa Không (9)? Chúng ta thấy là cơ quan Cal-Trans đã dùng Dê trong việc phòng ngừa hỏa hoạn từ nhiều năm trước..
Đàn Dê do Cal-Trans mướn để dẹp cỏ hoang.

Cô Maria Raptis viết: “Ngay cả đàn Dê cũng có đủ khôn để biết rằng làm việc cho Vùng 7 của Cal-Trans là một việc làm ngon xơi nếu các bạn đoán được ý nghĩa của chữ good-gig.”
Mưa mùa đông đã nuôi lớn những đám cỏ dại ven đường, và các loại cây nhỏ khác phát triển nhanh chóng. Cal-Trans đã dùng Dê trong “Năm ngày thử nghiệm” mà mục tiêu là “làm giảm thiểu các loại cây cỏ” trong vùng ven xa lộ thuộc khu vực Eagle Rock, thành phố Los Angeles, trong chương trình bảo trì các xa lộ.
Tại sao dùng Dê? Lý do đơn giản:
- Leo núi là biệt tài của Dê dù cho dốc hẽm có địa thế hiểm trở.
- Dê ăn, gặm tất cả các loại lá hay nhánh cây, không chừa loại nào kể cả cây có gai, hay cây có chất độc như poison ivy, Dê cũng xơi tuốt mà không hề hấn gì với độc tố của cây dại.
- Hơn nữa Dê làm việc siêng năng, từ sáng đến chiều, từ từ gặm nhắm, đa số “không than phiền”, chỉ làm việc trong vòng rào ngăn chận. Đôi khi Cal-Trans cũng gặp vài chú Dê lười, nhưng không phải là vấn đề gây trở ngại quan trọng.
- Cal-trans không phải lo việc đòi hỏi về workmen compensation, hay tiền mua/ mướn hay bảo trì dụng cụ.
- Cal-Trans khỏ phải lo “đổ rác” vì khi người và máy hạ cây cỏ xong thì việc đem các đống lá, nhánh cây ra nơi bãi rác cũng là một chi phí khá lớn.
- Có nhiều triền đồi độ dốc quá lớn, lại quá hẹp là một vấn đề khó khăn trong việc bảo vệ an toàn cho công nhân; và hơn thế nữa, nhiều hẽm đồi quá hẹp, dụng cụ hay máy móc trở thành sắt cục, không dùng được.
- Vấn đề quản trị một đàn Dê tương đối dễ dàng hơn quản trị một toán nhân công với sự di chuyển một số dụng cụ cồng kềnh khi làm việc ở vùng có các sườn đồi dốc cao và hẽm hẹp.
- Cuộc thử nghiệm được đánh giá “thành công”: Mướn đàn Dê 54 con, làm việc ở vùng có triền đồi quá sâu, hẹp, chi phí ít hơn dùng một đội công nhân với đầy đủ dụng cụ.
Gia đình Sara & Hugh Bunten là chủ nhân của đàn Dê “Nanny & Billy’s” cho Cal-Trans thuê Dê. Đàn Dê và Bunten’s đã lên đường hành nghề từ giữa năm 2006 ở nhiều nơi thuộc California. Họ bắt đầu nuôi Dê vào ngày kỷ niêm đám cưới năm thứ 29, khi họ nhận dược một món quà đặc biệt: một con Dê. Đàn Dê càng ngày càng phát triển. Ban đầu nuôi để lấy sữa và cheese. Sau đó là cho mướn đàn Dê trong việc ngừa cháy, làm trống trải những ven đường cho xe cộ dễ lưu thông, ăn sạch các loại cỏ dại để khai thông các rãnh nước v.v. Đàn Dê và việc chăn Dê của cả gia đình đem về một nguồn tài chánh đáng kể. Ông bà Bunten cùng đi làm với đàn Dê, với sự phụ giúp tận tâm và hiệu quả của chú chó “Steve”, điều khiển đàn Dê trong việc làm vì chúng biết nghe theo lời chỉ dẫn của ông bà và anh chó. Hai cô gái của nhà Bunten cũng phụ trong việc chăn Dê như vắt sữa, làm cheese, cho các Dê con ăn uống, và khi có giờ dư ngoài giờ học, cũng theo cha mẹ lo trông coi đàn Dê khi chúng đi làm thuê. Hai cô gái, nhờ lợi tức của đàn Dê, đã học xong học xong đại học. VOW! !
Dân ta có bài hát (tác giả?):
Ai bảo chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng lắm chớ
Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao.

Các chủ trại chăn Dê ở Mỹ cũng nhái giọng, ca theo:
“Ai bảo chăn Dê là khổ,
Chăn Dê sướng lắm chứ
Ngồi xe tow kéo đoàn Dê đi
Và miệng đếm đô la.

Chúng tôi Dương Tử và Nguyễn Hữu Phước thấy được quá nên cũng ăn có:
Ai bảo viết văn-Dê là khổ
Viết văn-Dê sướng lắm chứ
Ngồi đã cơ (đánh máy) viết từng câu văn
Và miệng hát Dê ơi. (Tiền đâu?)

Chúng tôi đa tạ những tác giả của những bài tham khảo, và các webs dùng làm nguồn tài liệu.

Xin chúc quý độc giả & gia đình, nhân viên tòa soạn & gia đình một năm Mùi thật mùi, một năm Dê thật Dê theo nghĩa hạnh phúc gia đình, một năm Ất Mùi với đầy đủ tam an: an bình, an lạc, và an khang.


Vợ chồng Sara & Hugh Bunten đang lượng định địa thế trước khi cho đàn dê của
gia đình làm việc phòng hỏa và làm trống các đám cỏ dại cạnh xa lộ. Hình trích từ
bài của Maria Raptis.

Sách Tham Khảo

(1) Nguyễn Hữu Phước (2014). Tiếng Việt Gốc Ngoại Quốc. Tác giả tái bản. Huntington Beach, California, USA.
(2) Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ (1970). Việt Nam Từ Điển. NXB Khai Trí, Sài Gòn,
Việt Nam.
(3) Nguyễn Hữu Phước (2004). Tiếng Việt Đa Dạng. NXB SEACAEF (Southeast
Asian Culture And Education Foundation), Huntington Beach, California, USA.
(4) Vương Hồng Sển (1962). Sài Gòn Năm Xưa. NXB Khai Trí, Sài Gòn, Việt Nam.

Các Tài Liệu Tham Khảo Khác
(5) Vô Danh. Bach Van Phi Web (2014). Lục Súc Tranh Công.
(6) Wikipedia Web.
(7) Bible Club Web.
(Cool Laguana Beach City Fire & Vegetation Management Project Web.
(9) Maria Raptis (2007) . “Hiring goats for Weed Abatement - - Is Cal-Trans
Kidding?” Article from Cal-Trans document. Web.
suphamsaigon
suphamsaigon
Admin

Tổng số bài gửi : 522
Join date : 17/12/2013
Age : 70
Đến từ : Saigon-Viet Nam

https://suphamsaigon.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết